Sự biến thiên của lịch sử tạo nên những nét
đặc trưng của áo dài ở mỗi thời kỳ. Nhưng tựu chung, áo dài lúc nào cũng đẹp, nữ
tính và đại diện cho truyền thống của phụ nữ Việt.
Không ai
biết thời điểm ra đời cụ thể của chiếc áo dài nhưng cách đây hàng ngàn năm, trên
trống đồng đã có hình ảnh này. Nó tồn tại cùng với mọi sinh hoạt thường ngày của
người Việt, từ giã gạo, làm ruộng, chăn nuôi gia súc... Cho đến thời Hùng Vương,
vào những năm 40 - 43 sau Công nguyên, diễn ra cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh
đạo duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều
độc lập, thống nhất và tự chủ. Lịch sử đã ghi lại rằng, khi ấy, Hai Bà Trưng đã
mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng, cưỡi voi đánh
trận.

Để tỏ lòng
tôn kính hai bà, phụ nữ Việt tránh mặc áo hai tà mà mặc áo tứ thân. Hồi ấy, họ
đã khéo léo sử dụng màu sắc tự nhiên từ củ nâu, lá bàng giã nhỏ hay bùn dẻo dưới
ao để làm màu nhuộm cho những trang phục, tạo ra nét “văn hóa mặc” đơn giản, tế
nhị và kín đáo.


Từ thế kỷ 17
đến đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam với chế độ phong kiến, phân chia giai cấp,
tầng lớp khá rõ ràng. Những người phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu áo tứ thân
thành áo ngũ thân hay năm tà để thể hiện sự quyền quý, cao sang, phân biệt mình
với những người thuộc tầng lớp nghèo hơn.




Có thể thấy rõ
sự phân biệt đẳng cấp trong bức ảnh này, chủ mặc áo ngũ thân, người hầu mặc áo
tứ thân.
Giai đoạn
1910 - 1950 và trước đó, người phụ nữ Việt vẫn còn chịu những khắt khe của xã
hội phong kiến nên trang phục không tôn dáng mà được may rộng, phía trong họ còn
mặc thêm một áo ngắn nữa. Chất liệu gấm và tơ dành cho những người giàu có.
Người nghèo thì may áo dài bằng vải.


Nền nếp, sự
bảo thủ khiến họ phải cân nhắc khi lựa chọn màu sắc. Chỉ những dịp đặc biệt hoặc
thân phận là đào hát mới dám dùng màu sặc sỡ cho y phục. Còn lại thường là màu
nhẹ nhàng, nhạt như hồng nhạt, lòng tôm, mỡ gà hoặc nâu, trắng, xám, để tránh bị
cho là không đứng đắn.
Một người phụ nữ giàu có
trong trang phục áo dài


Gia đình vua
Bảo Đại trong trang phục áo dài đầu thế kỷ 20.
Ở miền Bắc,
phụ nữ thích may thêm một cái khuy phụ bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra
đấy. Cổ áo hở ra để lộ những chuỗi hạt trang sức nhiều vòng.


Thập niên 1930 - 1940, gấu áo dài thường được may trên
mắt cá khoảng 20cm, được mặc với quần trắng hoặc đen.

Từ thời đó,
hình ảnh các thiếu nữ trường Đồng Khánh, Huế trong đồng phục áo dài tím đã đi
vào thi ca, nhạc họa.


Cũng trong
giai đoạn này, xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của Pháp nên bị ảnh hưởng bởi văn
hóa phương Tây, không chỉ trong tư duy, lối sống, văn học... mà còn cả ở thời
trang.Theo khuynh hướng này, năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường (Lemur) ở phố Hàng
Da, Hà Nội, đã cải tiến áo dài với những chi tiết mới mẻ và lạ lẫm như cổ áo
khoét hình trái tim, có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ, vai
áo may bồng, tay nối ở vai, khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải... 

Cô Nguyễn Thị
Hậu - người đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur (Phong Hóa)
Áo dài Lemur
đã bị những người bảo thủ cho là lố lăng, dị hợm, và lên tiếng công kích dữ dội
trên baó chí, mặc dù đuợc những phụ nữ cấp tiến hưởng ứng
nhiều.

Cô Hòa Vân
trong bộ y phục tân thời mùa Thu của Lemur 1938 (Trịnh Bách)

Nhưng loại áo
dài Lemur chỉ tồn tại đến năm 1943.
Xã hội ngày
càng phát triển với con mắt cởi mở hơn, thẩm mỹ cũng khác hơn. Thập niên 60 -
70, áo dài bắt đầu tôn lên những nét quyến rũ nhất của người phụ nữ. Eo được may
thắt lại, có người còn dùng dây quanh áo phía trong ở vòng hai để eo đuợc nhỏ
hơn, tà áo rộng, ngực áo nhọn, gấu áo thẳng ngang, dài gần đến mắt cá chân, làm
cho người mặc có dáng “thắt đáy lưng ong”. 

Người
phụ nữ Huế trong trang phục áo dài, nón lá duyên dáng năm
1961
Áo dài cũng
trở thành một trang phục không thể thiếu khi đi ra ngoài của phụ nữ Việt. Đặc
biệt trong Sài Gòn, cuộc sống phồn hoa và ảnh hưởng từ phong cách Mỹ đã khiến
phụ nữ nơi đây có phong cách áo dài đa dạng, năng động với đủ màu sắc, hoa văn,
chất liệu. Áo dài có mặt trong mọi hoạt động của phái yếu, từ đi chơi, đi chợ,
tiếp khách ở nhà, cho đến cưới xin, đi dự tiệc...



Hoa văn đa
dạng, nhiều màu sắc



Trong dịp quan trọng nhất đời
người, áo dài cũng là một trang phục không thể
thiếu.
Cùng trong
thập niên 60, áo dài thêm một lần nữa thay đổi: đẹp, quyến rũ hơn. Đó là kiểu áo
dài cổ hở do vợ của Ngô Đình Nhu, bà Trần Lệ Xuân, thiết kế (nên thường gọi là
áo dài bà Nhu)

Mốt này ban
đầu bị nhiều người chống đối, nhưng chỉ một thời gian sau lại nhận được nhiều
lời khen ngợi vì nó tôn lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa truyền thống của người phụ
nữ, lại rất đơn giản, tinh tế.

Sau này cổ
áo được cắt sâu xuống hơn nữa, hình vuông, hay hình tròn rộng khéo léo khoe cái
cổ yêu kiều và trang sức đẹp.

Đến gần
cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có
khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn
theo thân thể.


Phong trào
hippy phương Tây du nhập vào, khiến nhiều phụ nữ muốn "nổi loạn" và thoải mái
hơn, nhất là giới trẻ nên đã hình thành một dạng áo dài khác, phần nhiều chỉ dài
tới đầu gối, phía trên sát vào thân, dùng nhiều loại hàng ngoại màu sắc rực rỡ.

Áo dài gắn với
hình ảnh người phụ nữ Việt không chỉ đam đang, nữ tính mà còn anh dũng trong
những năm tháng hào hùng nhất của dân tộc.

Cô gái Huế mặc
áo dài năm 1972

Và con
gái Hà Nội năm 1974
Sau năm 1975
đến thập niên 80, là thời gian khó khăn của đất nước. Nơi nơi đều thực hành tiết
kiệm. Thậm chí những chiếc áo dài còn bị cắt lấy hai vạt áo để may áo ngắn.
Chính vì thế, giai đoạn này, áo dài cũng được chị em biến đổi khá nhiều: tà áo
dài ngắn lại, chỉ dài hơn đầu gối một chút, vạt cũng nhỏ gọn hơn.

Từ giữa
những năm 80 đến thập niên 90, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế
bắt đầu khá lên, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn đối với phụ nữ
Việt Nam.Vào năm 1989, cuộc thi Hoa hậu áo dài lần đầu tiên được tổ chức tại Sài
Gòn, đánh dấu sự hồi sinh phát triển mạnh mẽ của áo dài với hàng loạt các thiết
kế mới. Tà áo đuợc may dài hơn, cổ áo cao hơn, màu sắc vải đẹp, phong phú hơn,
áo thêu, áo vẽ trở nên thịnh hành... và lần đầu tiên, quần cùng màu với áo chủ
đạo thay vì chỉ có đen và trắng như trước.


Từ năm 2000
đến nay, sự giao lưu về văn hóa, sự phát triển vượt bậc về kinh tế, và cái nhìn
hiện đại tạo điều kiện cho các nhà thiết kế thỏa sức sáng tạo, áo dài biến hóa
muôn màu muôn kiểu và chính thức trở thành quốc phục của nước Việt Nam. Chính
vì thế, nó có mặt trong tất cả các cuộc thi sắc đẹp lớn nhỏ cũng như là hình ảnh
đại diện cho con người, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam trước bạn bè thế giới.


Đại diện cho
sự quyến rũ, nữ tính và kín đáo đặc trưng của phụ nữ Việt.
Sự phát
triển của xã hội vẫn tiếp tục, và chiếc áo dài không nằm ngoài dòng chảy ấy.
Nhưng thực tế đã chứng minh, dù có "vật đổi sao dời" thì cái hồn, cái tinh túy,
cái đẹp trong tà áo dài Việt sẽ mãi vẫn được lưu giữ và phát huy, như nhà thơ
Văn Tiến Lê đã từng ca ngợi: "Đơn sơ hai mảnh tuyệt vời. Thân sau vạt trước nên
lời nước non."* Bài viết có sử dụng hình ảnh tư liệu của các nguồn: L'
indochine FR, Le laquage des dents en Indochine, une campagne au Tonkin,
vietscience, W. Robert Moore/National Geographic Society, Life...

No comments :
Post a Comment